Chuyên đề1 : Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945 Đề 1 : ĐÂY MÙA THU TỚI – Xuân Diệu 1/ Cảm giác chung của bài thơ là buồn. Buồn vì hàng liễu rũ. Buồn vì cái lạnh len lỏi đây đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì có sự chia lìa, tan tác từ hoa cỏ, chim muông tới
Tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU-USSH), Loa Quốc tế nổi tiếng là câu lạc bộ (CLB) học thuật về lĩnh vực quan hệ quốc tế, có nhiệm vụ cung cấp thông tin, tri thức nền tảng và trau dồi kỹ năng cho sinh viên trong thời kỳ hội nhập.
Trong ngày hôm nay truyenthonghla.com sẽ trình bày về vấn đề Chuyên Đề Văn Học Lãng Mạn Việt Nam để các bạn có thể hiểu rõ bản chất của vấn đề cũng như là giải đáp được được thắc mắc về chủ đề Chuyên Đề Văn Học Lãng Mạn Việt Nam mà bạn đang quan … Chuyên Đề Văn Học Lãng Mạn Việt Nam Read More »
Cuộc sống hàng ngày nảy sinh ra vấn đề hiện thực và vấn đề lãng mạn. Bộ văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930_1945, gồm 8 tập, gần 100 tác phẩm, khoảng 3.000 trang, có truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết.
Chuyên đề: Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945 (phần văn) - Đề 4. Đề 4: Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam. Cao để làm nổi bật bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo. Khi Đôi lứa xứng đôi (tức Chí Phèo) xuất hiện trên
. I. Hoàn cảnh ra đời, quá trình phát triển của trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 1. Hoàn cảnh ra đời Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Sau khi bình định xong nước ta về mặt quân sự, chúng ráo riết tiến hành liên tiếp các cuộc khai thác thuộc địa nhằm bóc lột về kinh tế. Điều này đã dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong cơ cấu xã hội Việt Nam và ý thức hệ tư tưởng của con người. Văn hóa Pháp, văn hóa châu Âu theo bước chân bọn xâm lược đã ảnh hưởng vào Việt Nam, trong đó hạt nhân của nó là tư tưởng đề cao tự do cá nhân đã có tác động không nhỏ tới cảm xúc, suy nghĩ của người trí thức. Về mặt nghệ thuật, chủ nghĩa lãng mạn phương Tây cùng một số trào lưu khác sau đó như tượng trưng, siêu thực xuất hiện từ một thế kỷ trước đó đã để lại dấu ấn rõ nét và tạo nên một trào lưu nghệ thuật mới trong văn chương, hội họa, âm nhạc Việt Nam, trong đó mạnh mẽ nhất vẫn là ở lĩnh vực văn chương kể từ đầu thập niên 1930 trở đi. Xem thêm Vài suy nghĩ về khuynh hướng siêu thực trong Thơ mới 1932 – 1945 Sau ngày 17/6/1930, Nguyễn Thái Học và 12 yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, Pháp đẩy mạnh việc đàn áp khủng bố, bắt bớ tù đày các nhà ái quốc, dập tắt khởi nghĩa. Các phong trào yêu nước cách mạng tạm thời lắng xuống, rút vào hoạt động bí mật. Cuộc khủng bố quy mô toàn quốc những năm 1930 đã gây một không khí hoang mang, lo sợ trong các tầng lớp thanh niên trí thức. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 từ “mẫu quốc” Pháp tràn về Đông Dương thuộc địa như một thiên tai, cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân ngày càng trở nên khó khăn. Điều này càng làm tăng thêm bi quan cho bầu không khí u ám buồn thảm vốn có. Trong bối cảnh đó, những người trí thức ấp ủ tinh thần dân tộc mang tâm trạng chán nản, muốn thoát ly thực tại, xa lánh đời sống chính trị. Lại sẵn ảnh hưởng của tư tưởng tự do cá nhân, họ tạo ra những tác phẩm văn chương với nội dung và mục đích thoát ly thực tại, đào sâu vào thế giới của “cái tôi nội cảm”. Những tác phẩm này được gọi là văn học lãng mạn. Như vậy, sự ra đời của trào lưu văn chương lãng mạn ở Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có tiền đề từ thực tế xã hội cùng nhu cầu bức thiết giải phóng cá nhân, giải quyết được tình trạng bế tắc của giới trí thức trong bối cảnh xã hội bi quan đó. Con đường làm văn học nghệ thuật bằng chủ nghĩa lãng mạn là lối thoát trong sạch, là nơi trú ẩn tương đối an toàn có thể gửi gắm tâm sự, cũng là phương cách để bày tỏ lòng yêu nước. 2. Quá trình phát triển Ở các thế kỷ trước, chưa có chủ nghĩa lãng mạn trong các loại hình văn học, mới chỉ thấy mầm mống những yếu tố lãng mạn đậm nét về cảm xúc và biểu hiện ngôn từ. Tính chất lãng mạn thể hiện rõ trong các loại ca hát dân gian như quan họ, ca trù. Qua các làn điệu, giai điệu, lời hát uyển chuyển, duyên dáng, nhân dân lao động như bộc lộ một tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên cảnh vật, một mơ ước thiết tha về tình yêu, tình người. Đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, nội dung căn bản mang tính hiện thực nhưng có chứa đựng những yếu tố lãng mạn sâu sắc về tả cảnh, tả tình. Còn nhu cầu bộc lộ cái tôi khẳng định cái “bản ngã” giữa một nền văn học “phi ngã” cũng đã bắt đầu xuất hiện ở những cá tính sáng tạo như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát… Từ đầu thế kỷ XX đến trước năm 1932, một số tác phẩm có tính chất lãng mạn như “Khối tình con” của Tản Đà, “Một tấm lòng” của Đoàn Như Khuê, “Giọt lệ thu” của Tương Phố, “Linh phượng kí” của Đông Hồ, “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách… đã ra đời dưới sự ảnh hưởng của thi ca lãng mạn Pháp. Nhưng phải chờ tới khi Nhất Linh du học ở Pháp về chủ trương tuần báo “Phong hóa”, thành lập Tự lực văn đoàn, hô hào thay cũ đổi mới; và dấy lên phong trào Thơ mới, thì trào lưu văn chương lãng mạn mới thực sự có mặt trong nền văn học Việt Nam. Như vậy, văn học lãng mạn Việt Nam thực sự xuất hiện như một trào lưu trong giai đoạn 1932 – 1945. Về quá trình phát triển của văn học lãng mạn có thể chia ra ba thời kỳ 1932 – 1935, 1936 – 1939, 1940 – 1945. a Thời kỳ thứ nhất 1932 – 1935 Thời kỳ này, phong trào Thơ mới và văn chương Tự lực văn đoàn, nói chung là thuần nhất, chưa có sự phân hóa sâu sắc như thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Nội dung tư tưởng cũng có những yếu tố tiến bộ, tích cực nhất định. Thơ mới thời kỳ này là sự khẳng định những tên tuổi của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên với những bài thơ trong sáng, thấm tinh thần dân tộc như “Nhớ rừng”, “Tiếng gọi bên sông”, “Chùa Hương”, “Con voi già”… Văn chương của nhóm Tự lực văn đoàn cũng xuất hiện một số tác phẩm có giá trị. Những tiểu thuyết “Hồn bướm, mơ tiên”, “Gánh hàng hoa” ca ngợi tình yêu tự do; những tiểu thuyết lãng mạn như “Nửa chừng xuân”, “Đoạn tuyệt” đấu tranh cho quyền sống cá nhân, phê phán đại gia đình phong kiến. Thời kỳ này, ngoài những sáng tác của các tác giả kể trên, để đóng góp vào sự “thắng thế” của văn học lãng mạn, còn phải kể đến vai trò của những cuộc tranh luận văn học sôi nổi được sự tham gia tích cực của văn giới, của nhiều tờ báo Phong hóa, Ngày nay là nơi quy tụ văn chương của các nhà văn, nhà thơ của phong trào văn học lãng mạn gồm có Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Huy Cận, Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh; ngoài ra còn các tờ Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ bảy, Tao đàn… Các cuộc tranh luận trên các báo này xoay quanh vấn đề thơ mới – thơ cũ, hôn nhân gia đình, nghệ thuật phục vụ cái gì… b Thời kỳ thứ hai 1936 – 1939 Văn học lãng mạn thời kỳ này có sự phân hóa do tác động của phong trào Mặt trận Dân chủ. Về văn xuôi, một số nhà văn có xu hướng nghiêng về bình dân, trong tác phẩm của họ có nhiều yếu tố hiện thực và nhân đạo Thạch Lam, Trần Tiêu. Một số nhà văn lãng mạn như Nhất Linh, Hoàng Đạo đã quan tâm đến những cảnh “tối tăm”, “bùn lầy nước đọng” ở thôn quê. Năm 1937, Tự lực văn đoàn phát giải thưởng văn học cho “Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng, “Kim tiền” của Vi Huyền Đắc, sau đó cho đăng trên báo “Ngày nay”những tác phẩm có nhiều tính chất hiện thực như “Con trâu”, “Sau lũy tre”, “Những ngày thơ ấu”. Một mặt khác, xu hướng cải lương của Tự lực văn đoàn ngày một đậm nét hơn và đi vào tổ chức Hội Ánh sáng. Một số tác phẩm ca ngợi chủ nghĩa cải lương tư sản “Gia đình”, “Con đường sáng”. Một số tác phẩm khác lại lý tưởng hóa hình ảnh người khách chinh phu, con người mê man trong hành động, từ giã gia đình quê hương ra đi, tuy mơ hồ sương khói nhưng hết sức hấp dẫn, quyến rũ “Thế rồi một buổi chiều”, “Đôi bạn”. Về thơ ca nói chung, có sự phân hóa giữa các trào lưu thơ cách mạng, thơ hiện thực, thơ trào phúng. Nhưng riêng trong Thơ mới lãng mạn thì sự phân hóa rất ít, mà chủ yếu đào sâu vào cái tôi cá nhân. Khi phong trào cách mạng của quần chúng rầm rộ lên cao trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, khá đông thanh niên bừng tỉnh một lý tưởng mới thì cái tôi của Thơ mới hiện ra có phần lạc lõng. Nếu đem “gạn đục khơi trong” thì đây đó ta gặp một số yếu tố tích cực trong thơ Nguyễn Bính là vẻ đẹp trong sáng, gần gũi với dân tộc; trong thơ Xuân Diệu là lòng yêu cuộc sống, thái độ “phân vân” trước cuộc sống; trong thơ Huy Cận, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư là nỗi đau xót quằn quại, lòng yêu thương trân trọng con người; trong thơ Chế Lan Viên là một tâm sự yêu nước thầm kín xen lẫn thái độ nuối tiếc một thời quá khứ xa xưa… Ở cuối thời kỳ thứ hai này đã thấy những dấu hiệu đi xuống của thời kỳ thứ ba. c Thời kỳ thứ ba 1940 – 1945 Sau năm 1939, phong trào cách mạng bị khủng bố dữ dội, đời sống của các tầng lớp nhân dân sa vào cảnh khó khăn túng quẫn. Các nhà văn lãng mạn, người thì hoang mang dao động, do dự, chờ thời; người thì vùi đầu vào trụy lạc; kẻ thì quay ra hoạt động chính trị thân Nhật Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Văn chương Tự lực văn đoàn và Thơ mới đều sa vào cảnh bế tắc cùng quẫn. Những khuynh hướng tiêu cực ngày càng phát triển. Tự lực văn đoàn cho ra đời những tác phẩm ít nhiều mang màu sắc hiện đại chủ nghĩa “Đẹp”, “Bướm trắng”, “Thanh Đức”… Còn phong trào Thơ mới thì bắt đầu thời kỳ suy thoái của nó với tập “Thơ say” của Vũ Hoàng Chương, tiếp đến là một số tác phẩm khác “Thượng thanh khí” Hàn Mặc Tử, “Vàng sao” Chế Lan Viên, “Kinh cầu tự”, “Vũ trụ ca” Huy Cận, “Mây” Vũ Hoàng Chương, và các tập kịch thơ của Đinh Hùng… Như vậy, có thể nói con đường đi của văn học lãng mạn là con đường ngày càng xuống dốc. Càng gần đến cách mạng tháng 8/1945 thì trào lưu lãng mạn càng bộc lộ rõ những bạc nhược, hạn chế của nó. Nguyên nhân sâu xa là do nghệ sĩ lãng mạn ngay từ đầu đã tách biệt mình khỏi đời sống xã hội, đứng ngoài cuộc đấu tranh lành mạnh giải phóng dân tộc của quần chúng nhân dân. Bởi thế, theo xu hướng của lịch sử và văn học, trào lưu lãng mạn 1930 – 1945 đi vào hồi cáo chung cũng chính là một tất yếu của lịch sử. II. Đặc trưng của trào lưu lãng mạn. Chúng ta không thể phủ nhận rằng trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn chương thế kỷ XIX của Pháp. Chỉ trong khoảng thời gian mười lăm năm, văn học Việt Nam đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng của hơn một trăm năm văn học Pháp, từ trường phái lãng mạn hồi đầu thế kỷ XIX như Huygô, Lamactin, Satôbriăng, Muyxê, Vinhi đến nhóm Thi sơn với Gôtiơ, qua trường phái tượng trưng với Rimbô, Veclen, Malacmê. Tuy nhiên, điều đáng nói là văn học Việt Nam đã không có tính cách ngoại lai, vẫn mang bản sắc riêng chứa đựng tâm hồn Việt. Để tìm hiểu đặc trưng của trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam, ta hãy bắt đầu từ quan niệm cho đến thực tiễn sáng tác của các nghệ sĩ lãng mạn. 1. Về quan niệm thẩm mỹ Ở nước ta, các nhà văn lãng mạn ít khi lập thành trường phái và có những tuyên ngôn nghệ thuật riêng. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy được quan điểm thẩm mỹ của họ qua một số bài thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử…Thực ra, quan điểm mỹ học của các nhà thơ lãng mạn ở nước ta không có gì mới so với các nhà thơ lãng mạn phương Tây. Từ bản nhạc dạo đầu của “Cây đàn muôn điệu” Thế Lữ, người ta đã nghe thấy những thanh âm của chủ nghĩa “nghệ thuật vị nghệ thuật”, đề cao sự tự do tuyệt đối của cái tôi nghệ sĩ khi sáng tác “Không chuyên tâm, không chủ nghĩa nhưng cần chi ? Tôi chỉ là một khách tình si Ham cái đẹp muôn hình muôn vẻ Mượn cây bút nàng Ly Tao tôi vẽ Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca…” Trong cuốn tiểu thuyết “Đẹp”, Khái Hưng cũng lắp lại cái quan niệm cho nghệ thuật là vô tư lợi, không cần phục vụ một mục đích nào cả… Đây cũng là ý kiến của Xuân Diệu trong bài “Lời thơ vào tập “Gửi hương” “Tôi là con chim đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi Khi gió sớm vào reo um khóm lá Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời Chim ngậm suối đậu trên cành bịn rịn Kêu tự nhiên nào biết bởi sao ca Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa…” Cái buồn cũng thấm sâu vào quan niệm thẩm mỹ của các nhà Thơ mới. Chế Lan Viên đã hết lời ca tụng vẻ đẹp của hạt lệ “Tôi tin chắc vào chân lý của hạt lệ như vào chân lý của ngọc đêm, sương sáng, muối biển, sao trời… Hạt lệ ! Những ngôi tinh lạc rơi từ một vòm trời luôn luôn khuya khoắt là bầu mắt thẳm xuống một trần gian mãi mãi gió sương là lòng đau bát ngát của con người…” Tựa “Vàng sao”. Huy Cận thì cho rằng “cái đẹp bao giờ cũng hơi buồn” “Kinh cầu tự”. Ngoài ra, quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ trường phái thơ tượng trưng, siêu thực của Pháp. Hàn Mặc Tử cho rằng khi thi sĩ sáng tác tức là anh ta ở trong trạng thái mê sảng, chiêm bao “Tôi làm thơ?… Nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên” Tựa “Thơ điên” – 1938. Nguyễn Xuân Sanh kết thúc trào lưu lãng mạn bằng quan niệm cao siêu, thuần túy về thơ, gắn liền Thơ với Đạo, cho rằng thơ là “không thuộc lí trí” mà là “hàm súc, tiềm thức, thuần túy”, “Thơ chính là một cách tri thức cao cấp. Nó đã gặp hình nhi thượng, đưa đến tôn giáo”. Quan điểm thẩm mỹ này đã đưa lối thơ bí hiểm của Nguyễn Xuân Sanh trong “Xuân thu nhã tập” đến độ chót của thơ tượng trưng Malacmê, Valơry… Như vậy, mới xét riêng về quan điểm thẩm mỹ đã thấy có sự khác biệt nhất định giữa văn học lãng mạn Việt Nam so với văn học lãng mạn phương Tây. Văn học lãng mạn Việt Nam có tính không thuần nhất, không chỉ ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà ở chặng cuối đường của nó còn ảnh hưởng của trường phái thơ tượng trưng và siêu thực. Điều đó chi phối rất lớn đến thực tiễn sáng tác của các nghệ sĩ lãng mạn, đem đến cho tác phẩm một diện mạo riêng với đặc trưng khó trộn lẫn. Ở một phương diện nhất định, cũng có thể dùng khái niệm “Việt hóa” để nói về văn học lãng mạn Việt Nam so với văn học lãng mạn Pháp. 2. Về sáng tác Nhà thơ Tố Hữu đã nhận xét rất đúng rằng phong trào Thơ mới đã nói lên được “một nhu cầu lớn về tự do và phát huy bản ngã”. Nhận xét này cũng rất đúng với văn xuôi lãng mạn Việt Nam, trong đó điển hình nhất là văn chương của nhóm Tự lực văn đoàn. Trước kia, trong văn học hầu như không cái tôi, mà chỉ có cái ta của cộng đồng. Văn học dân gian là thành quả sáng tác của tập thể, vì thế là tiếng nói chung của cả cộng đồng, điều đó là đương nhiên. Nhưng đến thời kỳ văn học trung đại, khi tác phẩm đã là tiếng nói riêng của một cá nhân, mà tư tưởng cộng đồng, cái ta vẫn bao trùm, ngự trị. Dường như các nhà văn rất ngại nói đến cái tôi. Cái tôi cá nhân không có địa vị trong văn học và xã hội. Trong nền văn chương lịch triều, tính cách phi ngã ngự trị hầu hết các tác phẩm văn học Việt Nam. Thảng hoặc, có thể bắt gặp ở một vài nghệ sĩ lớn nét riêng, độc đáo, cũng có người đã tự xưng danh Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ song đó là những trường hợp ngoại lệ, rất hiếm hoi và cũng chỉ ở một số sáng tác mà thôi… Bắt đầu sang thế kỷ XX, nhất là từ trào lưu văn học lãng mạn, dưới ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, cái tôi cá nhân bắt đầu được giải phóng và có nhu cầu khẳng định mạnh mẽ. Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã nhắc tới hiện tượng này “Ngày thứ nhất – ai biết đích ngày nào – chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này quan niệm cá nhân”. Do đó, đặc trưng bao trùm, quan trọng nhất của chủ nghĩa lãng mạn là đã thể hiện, “khẳng định cái tôi như một bản lĩnh tích cực trong cuộc sống, như một chủ thể sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật. Lần đầu tiên trong văn học Việt Nam có một cái tôi cá thể hóa…” Phan Cự Đệ. Cái tôi này nhìn cuộc đời bằng con mắt của chính nó, miêu tả thế giới bằng sự cảm nhận của chính nó chứ không làm điều đó nhân danh một tư tưởng, một quy tắc nào. Có lẽ do vậy, cũng là lần đầu tiên trong văn học, người ta được chứng kiến một sự bứt phá ngoạn mục của văn học Việt Nam, chỉ trong vòng mười lăm năm ngắn ngủi, văn học lãng mạn Việt Nam đã tạo ra một khu vườn trăm hoa đua nở với sự xuất hiện của hàng loạt tên tuổi thuộc nhiều phong cách, trong cả thơ lẫn văn xuôi. Cũng chỉ trong chỉ khoảng hơn một thập niên, văn học Việt Nam nhảy vọt từ tình trạng âấu trĩ sang phát triển, không thua kém gì văn học phương Tây. Chính sự giải phóng cái tôi của chủ thể sáng tạo đã tạo ra phong trào Thơ mới với hàng trăm tác giả, tác phẩm mà sự tổng hợp của Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam” mới chỉ mang ý nghĩa điển hình. Nhưng giá trị không chỉ dừng lại ở số lượng, quan trọng hơn là ở chất lượng, ở sự kết tinh của những cây bút có phong cách, có tài năng. Hoài Thanh phát hiện và khẳng định điều này thật tinh tế và tuyệt vời chính xác “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” “Thi nhân Việt Nam”. Cũng nhờ sự giải phóng chủ thể sáng tạo, văn xuôi cũng có nhiều khởi sắc so với trước. Nếu như trong suốt mười thế kỷ văn học trung đại, mới chỉ có lác đác vài ba tác phẩm văn xuôi còn lưu lại tên tuổi, đầu thế kỷ XX cũng mới xuất hiện một số cây bút thì giai đoạn 1930-1945, riêng trào lưu lãng mạn chưa kể văn học hiện thực đã có những phong cách văn xuôi có giá trị đó là một Nhất Linh đau khổ, dằn vặt trên con đường đi tìm lý tưởng và hạnh phúc, tinh tế trong việc diễn tả cảm xúc và diễn biến tâm lý; một Khái Hưng sôi nổi yêu đời, duyên dáng, vui vẻ lạc quan một cách dễ dãi với những ảo tưởng lãng mạn và ngây thơ; một Thạch Lam vừa mơ mộng lãng mạn vừa hiện thực, giàu tình cảm nhân đạo, có biệt tài miêu tả những cảm giác tinh tế và những màu sắc, hương vị, tâm hồn dân tộc; một Nguyễn Tuân với cái tôi vừa kênh kiệu, khinh bạc, gồ ghề, lãng tử đi lù đù, ngang bướng giữa cuộc đời xem đó như một vũ khí chống lại cái xã hội kim tiền ô trọc vừa tôn thờ, chắt chiu cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày, trong ngôn ngữ và truyền thống dân tộc… Tuy cùng thuộc trào lưu lãng mạn, nhưng khi nghiên cứu đặc trưng của trào lưu lãng mạn Việt Nam vẫn phải thừa nhận sự khác biệt giữa thơ lãng mạn và văn xuôi lãng mạn.
Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 19/07/2019, 1340 Nhận thấy vai trò, tầm quan trọng của việc truyền tải những giá trị to lớn của các tác phẩm ấy tới học sinh, chúng tôi xây dựng Chủ đề “Truyện lãng mạn Việt Nam hiện đại 1930 1945”, từ đó giúp học sinh khám phá những vẻ đẹp về nội dung, hình thức nghệ thuật của các tác phẩm đó cũng như nét độc đáo, sáng tạo trong phong cách nghệ thuật của hai nhà văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Bên cạnh đó, chúng tôi muốn xây dựng cho học sinh một nền tảng kiến thức lí luận văn học nhất định về thể loại văn học truyện nói chung và truyện lãng mạn Việt Nam 1930 1945 nói riêng để các em có khả năng tiếp cận các tác phẩm truyện giai đoạn này. Hơn nữa, chuyên đề này còn cung cấp cho các em cách thức và kĩ năng làm văn nghị luận các dạng đề về tác phẩm truyện – mảng kiến thức quan trọng trong bài thi THPT Quốc gia. - Xem thêm -Xem thêm CHUYÊN ĐỀ TRUYỆN LÃNG MẠN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1930 1945,
Biêlinxki trong bài Văn học Nga, năm 1841, định nghĩa “Chủ nghĩa lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và trái tim”.Bạn đang xem Các tác phẩm văn học lãng mạn việt namVăn học lãng mạn là một trào lưu văn học, đồng thời cũng là khuynh hướng sáng tác. Đây là một trào lưu sáng tác còn nhiều tranh cãi bởi một số quan điểm cho rằng những tác phẩm theo trường phái này quá bi lụy, thiên về tình cảm và xa rời hiện thực. Tuy nhiên cần nhìn nhận một cách khách quan rằng, văn học lãng mạn đã đóng góp rất nhiều cho nền văn học Việt Nam khi nó ra đời về cả nội dung lẫn nghệ thuật, đồng thời vẫn mang những giá trị nhân văn vốn có của văn học Việt cảnh ra đờiCuộc Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã đánh đổ chế độ phong kiến. Sự kiện này là một bước ngoặt vĩ đại không chỉ đối với Pháp mà còn đối với cả Châu Âu. Chính sự sụp đổ của chế độ phong kiến và sự hình thành quan hệ xã hội mới đã tác động sâu sắc đến tư tưởng tình cảm của mọi tầng lớp trong xã với lớp người thuộc ý thức hệ quý tộc lớp người cũ, họ cảm thấy bất mãn với trật tự xã hội mới các đặc quyền, đặc lợi của họ trước kia hoàn toàn mất sau cuộc cách mạng này, lo sợ trước các phong trào quần chúng, hoang mang vì tương lai mờ mịt đồng thời luyến tiếc thời oanh liệt không còn nữa. Một bộ phận tầng lớp tiểu tư sản bị phá sản khi cách mạng nổ ra nên họ có tâm trạng bi đát Đối với những người ủng hộ cách mạng lại cảm thấy bất mãn với thành quả đạt được, từ đó dẫn tới khuynh hướng thoát ly hiện thực, sản sinh ra chủ nghãi văn học lãng ta vào những năm bị thực dân Pháp xâm lược, chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa phương Tây, văn hóa Pháp du nhập vào Việt Nam với hạt nhân là tính tự do cá nhân được đề cao, đem đến một tư tưởng mới mẻ cho một nền văn học bị kìm hãm bởi những quan niệm phong kiến đã không còn hợp lý. Những tác giả nhanh chóng tiếp thu những cái hay của văn học lãng mạn, vào tạo thành trào lưu sáng tác lãng trưng của văn học lãng mạnNếu chủ nghĩa hiện thực thì nghiêng về phản ánh, chủ nghĩa lãng mạn nghiêng về bộc lộ. Chủ nghĩa hiện thực thì thấy thế nào miêu tả thế ấy bằng phương pháp điển hình hóa. Chủ nghĩa lãng mạn cảm và suy nghĩ thế nào viết thế ấy. Chủ nghĩa hiện thực nghiêng về xu hướng hướng ngoại. Chủ nghĩa lãng mạn lại nghiêng về xu hướng hướng nội. Một bên xem cuộc sống là đối tượng khách thể để miêu tả,một bên lấy cái Tôi làm trung tâm để thể hiện. Có thể nói đặc trưng lớn nhất của văn học lãng mạn là lấy tình cảm làm trung tâm, không quan trọng yếu tố cốt truyện. Đặc biệt, văn học lãng mạn có những quan điểm mới về cái đẹp, cho rằng nghệ thuật vị nghệ thuật, thơ đơn thuần là nghĩa lãng mạn là sự phản ứng chống lại xã hội đương thời, con người muốn thoát li thực tế tìm đến một thế giới khác giúp con người quên đi cuộc sống mà họ cảm thấy chán ghét, vẽ ra một cuộc sống làm thỏa mãn "cái tôi" bị tổn thương của con người, nên thế giới trong chủ nghĩa lãng mạn là thế giới mộng tưởng, đề cao tình cảm và tự do cá nhân. Chủ nghĩa lãng mạn chia thành hai xu hướng. Xu hướng tích cực phủ nhận thực tại xã hội, những sáng tác của họ phù hợp với lợi ích của nhân dân, về cơ bản vẫn giữ được tinh thần đấu tranh xã hội, bất bình với thực tại, các nhà lãng mạn muốn tìm ra giải pháp chống lại những tệ nạn xấu xa của xã hội.. , song còn mang tính cải lương, chưa đủ mạnh mẽ. Xu hướng tiêu cực lại có cái nhìn quá bi quan, chán nản, thi vị hóa hiện thực, vị kỉ hóa cá nhân một cách thái quá, kêu gọi con người thoát ly hiện thêm 99 Tên Game Tiếng Anh Hay Cho Nam, Nữ, Trong Game, Tên Tiếng Anh Hay Cho Game Thủ Và Ý Nghĩa Của NóNhìn chung, văn học lãng mạn đã giải phóng cái tôi cá nhân một cách triệt để sau hàng nghìn năm bị kìm hãm, đề cao tình cảm cá nhân, đặt con người trở về những tình cảm giản dị nhất, ước mơ bình thường nhất mà bấy lâu nay văn học không dám nói do sự hà khắc của chế độ phong trình phát triểnỞ Việt Nam, văn học lãng mạn bao gồm phong trào thơ mới và văn xuôi lãng mạn. Có thể chia thành từng thời kì sau- Thời kỳ 1930-1935Đây là giai đoạn đánh dấu sự ra đời của phong trào thơ mới với những cái tên xuất sắc như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu... và văn xuôi lãng mạn với đại diện tiêu biểu là nhóm tự lực văn phận văn học tư sản, tiểu tư sản thời kỳ này là văn học lãng mạn Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và thơ mới. Đối với thơ mới, sau bài khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ …Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư kêu gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía Thơ giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới với tập Mấy vần thơ 1935. Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên …Tiểu thuyết của nhóm tự lực văn đoàn trước mắt gây được tiếng vang, với những đại diện tiêu biểu là Nhất Linh, Khái Hưng, và Thạch Giai đoạn 1936 – 1939Đây là giai đoạn chứng kiện sự giao thoa giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trong văn học lãng mạn, các nhà văn trước sự tác động của các cuộc biểu tình, chiến đấu và hoạt động của mặt trận dân chủ bắt đầu chú ý hơn đến cuộc sống hiện thực của con người. Đặc biệt được thể hiện trong văn xuôi của Thạch Lam, yếu tố hiện thực được đưa vào rất nhiều. Đối với phong trào thơ mới, các nhà thơ vẫn đề cao tình cảm cá nhân, và tuyệt đối hóa cái tôi. Bên cạnh những tình cảm tích cực của Xuân Diệu, nỗi buồn và tiếc nuối quá khứ của Vũ Đình Liên, tình yêu nước của Huy Cận, thơ mới bắt đầu đi vào giai đoạn thoái Giai đoạn 1940-1945Văn học lãng mạn bước vào giai đoạn thoái trào, trước sự kêu gọi đấu tranh giải phong dân tộc, văn học lãng mạn đã không còn tiếp tục có thể thực hiện chức năng của nó. Các nhà văn rơi vào trạng thái bế tắc, các tác phẩm tuyệt đối hóa cá nhân một cách quá mức trong khi đất nước đang bước vào giai đoạn mới, đòi hỏi văn học có những chức năng mới. Văn học lãng mạn kết thúc là một sự tất yếu, hợp với quy luật của lịch sử, nhường chỗ cho chủ nghĩa văn học khác với những chức năng học lãng mạn, nhìn ở góc độ tích cực đã đem đến cho nền văn học Việt Nam sự cách tân mới mẻ về hình thức và nội dung, làm tiền đề cho sự phát triền của văn học sau này. Chỉ tồn tại một thời gian ngắn nhưng đã để lại cho văn học nước ta những tác phẩm bất hủ mà không bao giờ ta có thể tìm lại ở những thời kì văn học khác.
I. Chủ nghĩa lãng mạn1. Lịch sử hình thành2. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạnII. Trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam Chủ nghĩa lãng mạn và trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam I. Chủ nghĩa lãng mạn 1. Lịch sử hình thành Chủ nghĩa lãng mạn là một khái niệm mang tính lịch sử. Từ rất lâu nó đã được sử dụng với tư cách là một trào lưu tư tưởng, thủ pháp biểu hiện và loại hình văn học. Nhưng chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là một trào lưu thì phải chờ tới cuối thế kỉ 18 đến những năm 30, 40 của thế kỉ 19, đầu tiên hình thành ở Đức, sau đó lan sang Anh, Pháp, Nga… nhanh chóng phát triển thành phong trào văn học rộng khắp châu Âu, tạo ra rất nhiều tác giả, tác phẩm có ảnh hưởng lớn. Chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là loại hình văn học chủ yếu chỉ chủ nghĩa lãng mạn ở thời kì này. Thời kì hưng thịnh nhất của chủ nghĩa lãng mạn là vào trước sau cuộc đại cách mạng tư sản Pháp, tức là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ 18 đến những năm 30 của thế kỉ 19. Sự phát triển rực rỡ của chủ nghĩa lãng mạn trong thời kì này hiển nhiên là do điều kiện chính trị xã hội lúc đó quyết định. Năm 1789 giai cấp tư sản Pháp lật đổ chính quyền phong kiến chuyên chế, lập nên sự thống trị của giai cấp tư sản, điều này làm dâng lên phong trào cách mạng dân chủ tư sản và phong trào giải phóng dân tộc ở khắp châu Âu. Đi liền với phong trào này là sự bấp bênh, hỗn loạn của hiện thực xã hội, lí tưởng của chủ nghĩa Khai sáng bị hủy diệt, sự thất vọng ăn sâu lan rộng trong xã hội. Cùng với nó, mong ước về một xã hội lí tưởng chân chính cũng trở thành tâm lí xã hội phổ biến, những điều này dẫn đến sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn. Ngoài ra, mặc dù lí luận chủ nghĩa xã hội không tưởng với đại biểu là Xanh Ximong và Owen tuy không phải là lí luận khoa học, hoàn thiện nhưng tư tưởng xã hội tiêu biểu của nó là mong ước không tưởng về một xã hội giải phóng chân chính, cũng trở thành cơ sở của chủ nghĩa lãng mạn. Sự hình thành của chủ nghĩa lãng mạn cũng có cội nguồn từ kinh nghiệm lịch sử và đấu tranh trong bản thân văn học. Văn học cảm thương chủ nghĩa Anh thế kỉ 18, yêu cầu giải phóng cá tính, chủ trương tự do tình cảm, quay trở lại tự nhiên thuần phác của Rousseau, nhấn mạnh cá tính, sắc thái tình cảm mãnh liệt trong phong trào cách tân với đại biểu là Goethe, nghiên cứu về tính bi kịch, ngợi ca, vẻ đẹp đăng đối của Kant, Schiele; sự thưởng thức nghệ thuật bắt đầu bằng việc đặt nghệ thuật trong dòng phát triển lịch sử của Herder, Hegel… Tất cả đã kích hoạt tư tưởng của con người, làm cho cảm nhận, lí giải của con người đối với nghệ thuật trở nên sâu sắc hơn. Từ đó yêu cầu nghệ thuật biểu hiện tinh thần vĩ đại và tư tưởng tình cảm một cách sâu sắc…Tất cả những điều này đều có vai trò quan trọng đối với sự hình thành chủ nghĩa lãng mạn. Ngoài ra, chủ nghĩa cổ điển trước đó có khuynh hướng giáo điều lí tính khô cứng, tạo thành những giới luật hà khắc đối với tự do biểu hiện tư tưởng của nhà văn, dẫn đến sự phản đối mãnh mẽ của một số nhà văn, điều này cũng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn. Từ lãng mạn romanticism, romantisme xuất phát từ tình ca romances của thời trung cổ, để chỉ những bài thơ dài nói về những chàng kỵ sĩ, những anh hùng, về những vùng đất xa xôi và những cuộc tình lỡ làng… hoặc những bài ca mà người hát rong trabadour thường sử dụng trong ca diễn của mình. Nó xuất hiện sớm nhất ở Đức. Vậy lãng mạn là gì? Biélinski trong bài Văn học Nga, năm 1841, định nghĩa “Chủ nghĩa lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và trái tim”. Có thể nhìn qua những nét chính thể hiện trong những tác phẩm lãng mạn để nhận ra rằng chủ nghĩa lãng mạn là thứ nghệ thuật ở đó nổi trội chất trữ tình. Đối lập với hiện thực là lãng mạn, đối lập với tự sự là trữ tình. Trữ tình là kết quả của việc biểu hiện cảm xúc, tâm trạng chủ quan của con người, do phản ánh ước mơ và khát vọng của con người nên thường vươn lên trên thực tại. Hai phạm trù nghệ thuật này tuy khác nhau nhưng thường đi đôi với nhau. Trữ tình chính là sự mở rộng chủ nghĩa cá nhân, hệ tại ở những hiện tượng cảm tính như tình cảm, cảm xúc về tình yêu, hi vọng, tuyệt vọng, hận thù, thiện cảm, ưu phiền… Georges Duhamel nhận xét “Phát xuất từ tâm hồn cá nhân, thơ trữ tình tỏa ra khắp thế giới và làm nó thay hình đổi dạng. Trữ tình không chỉ là đặc tính của một loại thơ, đối với tính nhạy cảm của con người hiện đại, nó là thực chất, là điều kiện cần và đủ của thơ ca”. Nói như V. Hugo, lãng mạn là chủ nghĩa tự do trong văn chương. Chính vì sự đòi hỏi tự do mà phong trào lãng mạn đề cao cá nhân, phá bỏ những ràng buộc, qui luật chặt chẽ trong nghệ thuật, thoát khỏi những khuôn mẫu câu thúc. Bút pháp phóng khoáng, vần điệu đa dạng, từ ngữ được chọn lựa tùy theo mức cảm hứng, hành xử theo con tim dễ nhạy cảm và đam mê với giọng điệu thiết tha, đôi khi đạt đến tính nhân bản sâu sắc… 2. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn là tinh thần hướng về lí tưởng. Rất khác so với tinh thần chú trọng hiện thực, nhìn thẳng vào sự thật, trung thành với hiện thực của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn luôn hướng về và truy tìm lí tưởng với tinh thần vượt lên trên hiện thực, dùng lí tưởng chủ quan thay thế hiện thực khách quan, dốc toàn lực để biểu hiện một viễn cảnh cuộc sống mà con người nên có. Schiller nói sáng tác của mình là “lấy lí tưởng đẹp đẽ để thay thế hiện thực thiếu thốn” Schiller bình truyện. Nxb Nhà văn, 1955, tr55. George Sand nói sáng tác của mình là “cảm thấy tất yếu phải dựa theo hi vọng của tôi đối với nhân loại, dựa vào cái mà tôi tin là nhân loại nên có để viết về nó” George Brandes Nhà văn Pháp bình truyện. Nxb Phụ vụ văn hóa quốc tế, 1951, tr2. Nhà tiểu thuyết người Đức Jean Paul nói “Nếu như nói thơ là lời dự đoán, thì thơ lãng mạn chủ nghĩa chính là dự cảm tương lai, vĩ đại hơn sự bao dung của thế gian con người. Hoa của chủ nghĩa lãng mạn đã từng trôi dạt quanh chúng ta, giống như trước khi một đại lục mới được tìm thấy, giống như một loại hạt mà tất cả chúng ta chưa từng nhìn thấy sớm được nước biển đưa từ châu Mĩ đến bờ biển Na Uy” Jean Paul Nhập môn mĩ học. Xem Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc,1981, tr354. Chủ nghĩa lãng mạn không truy tìm chân thực cuộc sống, chân thực chi tiết, mà dốc toàn lực biểu hiện lí tưởng. Như Michael trong tác phẩm Nữ hoàng Mab đã miêu tả một thế giới tuyệt đẹp với sự hòa thuận, thân ái, bình đẳng…, điều mà tác giả muốn biểu hiện chính là một thế giới lí tưởng. Trên một ý nghĩa nào đó, chủ nghĩa lãng mạn phù hợp hơn với bản chất của văn học, thỏa mãn hơn nhu cầu tranh đấu tự do, hướng tới hạnh phúc, truy tìm lí tưởng của con người. Vì hướng tới biểu hiện hiện thực xã hội lí tưởng nên hình tượng nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn cũng là hình tượng nhân vật lí tưởng. Ví dụ như Quasimodo lương thiện, cao thượng dưới ngòi bút của Jean Valjean vì lương tâm nhân tính mà bao lần không quản hiểm nguy cứu người, bao lần sáng tạo nên kì tích biến nguy thành an; Tôn Ngộ Không dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân có thể lên trời xuống biển, nhìn thấu ma quỷ, đối đầu với thần, truy đuổi yêu tinh, hô mưa gọi gió, làm theo ý mình, thượng đế long vương không biết phải làm như thế nào… Tất cả đều là những hình tượng nhân vật lí tưởng. Van Tieghem nói về hình tượng nhân vật lí tưởng của chủ nghĩa lãng mạn như sau “không nắm bắt tình huống nhiều hơn, đem so sánh loại hình tượng văn học này với hình tượng văn học xưa kia và đương thời trên vũ đài văn học là không chính xác…. Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn và những điều nó nói là một điển phạm nhưng không như nói là một điển hình; nó hướng tới thức dậy sự tán thành, hứng thú của độc giả chứ không phải là đưa ra đối tượng cần mô phỏng” Lucien Levy-Bruhl Lịch sử văn học Pháp thế kỉ 19. Nxb Nhân dân Thượng Hải, 1997, tr 26. Cuộc sống lí tưởng mà chủ nghĩa lãng mạn hướng đến, truy tìm và nhân vật lí tưởng trong hiện thực cuộc sống đương thời là không tồn tại, nó đều xuất phát từ tâm hồn chủ quan của nhà văn. Bielinxki đã nói “Trên ý nghĩa bản chất nhất, hẹp nhất, chủ nghĩa lãng mạn chính là thế giới nội tâm chủ quan của con người, là cuộc sống bí mật của tâm hồn anh ta. Trong trái tim và tâm lí con người tiềm ẩn ngọn nguồn bí mật của chủ nghĩa lãng mạn” Bielinxki bàn về văn học. Nxb Văn nghệ mới 1958, tr153. Marilyn Butler – nhà lịch sử văn học người Anh nói “nghệ thuật nhìn từ trường phái lãng mạn chủ nghĩa là một ngọn đèn, hình tượng mà nó phát sáng không phải có nguồn gốc từ thế giới mà có nguồn gốc từ nhà thơ. Nghệ thuật trở thành nghệ thuật của chủ quan phi khác quan, xuất phát từ cảm ứng trực giác chứ không phải là từ quy hoạch lí tính” Marilyn Butler Trường phái lãng mạn, kẻ phản nghịch và phái phản động. Nxb Nxb Giáo dục Liêu Ninh, 1958, tr153. Người mở đầu cho thơ ca trường phái hiện đại Pháp Baudelare nói “Chủ nghĩa lãng mạn vừa không phải là đề tài tuyển chọn vừa không phải là chân thực chuẩn xác mà là phương thức cảm nhận”. “Họ tìm kiếm ở bên ngoài, nhưng thực chất chỉ có ở trong mới có thể tìm kiếm được” Sharon 1846. xem Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc, 1981, tr184. Vì thế, giống như Chu Quang Tiềm chỉ ra “cái nổi bật nhất, đặc trưng bản chất nhất của chủ nghĩa lãng mạn là tính chủ quan” Lịch sử mĩ học phương Tây. Quyển hạ, Nxb Văn học nhân dân, 1964, tr 727. Chủ nghĩa lãng mạn mang sắc thái chủ quan sâu sắc, tập trung vào lí tưởng của chủ thể, chú trọng truyền đạt cảm nhận chủ quan, biểu hiện tâm hồn chủ quan, thể hiện tình cảm chủ quan của cá nhân. Nhà viết lịch sử văn học người Pháp Ranson nói “Chân lí phổ biến về trật tự lí tính và trí tuệ của tài năng suy lí, suy tư sâu sắc là hai thứ mà chủ nghĩa lãng mạn không quan tâm. Tâm lí học và khoa học, nghệ thuật suy sét, nghệ thuật suy lí, phương pháp chính xác, logic chặt chẽ đều không phải là cái mà chủ nghĩa lãng mạn quan tâm” Ranson Lịch sử văn học Pháp. Xem Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc, 1981, tr240. Bielinxki khi bàn về Cường đạo của Schiller đã chỉ ra Cường đạo giống như “tụng ca thô kệch về ngọn lửa dung nham phun ra từ tâm hồn đầy sinh lực của thanh niên” “trong câu nói này không phải là nhân vật mà là tác giả; trong toàn bộ tác phẩm không hề có sự chân thực của cuộc sống, nhưng lại có sự chân thực của cảm nhận, không có hiện thực, không có kịch nhưng lại có thơ vô tận, tình thế là không có thật, tình tiết là không tự nhiên, nhưng tình cảm là chân thực, tư tưởng là sâu sắc; tóm lại, vấn đề nằm ở chúng ta tất yếu không coi Cường đạo của Schiller là kịch, là sự biểu hiện cuộc sống, mà là thơ trữ tình trường thiên mang hình thức kịch, là thơ trường thiên hừng hực, sục sôi” Tuyển tập Bielinxki, tập 1, Nxb Dịch văn Thượng Hải, 1979, tr156-157. Vì nhấn mạnh tính chủ quan nên chủ nghĩa lãng mạn khi miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật thường vượt lên trên sự phản ánh thế giới khách quan, sự dồi dào tình cảm trở thành hạt nhân, chủ thể của một tác phẩm, sự kiện, nhân vật và hành động nhân vật, ngôn ngữ và kết cấu tác phẩm… đều có thể tổ chức, sắp xếp vì sự biểu hiện tình cảm, tình điệu cảm thương, sầu muộn, kích động, vội vã thậm chí bao phủ toàn bộ câu chữ của tác phẩm. Hết sức ca ngợi đại tự nhiên cũng là một đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Trong lịch sử phát triển, cảm tình của con người đối với tự nhiên là sản phẩm của thời kì văn minh, nó muộn hơn cảm tình đối với nghệ thuật. Văn học Hi Lạp phong phú và có giá trị, nghệ thuật Athens cũng hết sức huy hoàng, nhưng trong những tác phẩm của những dân tộc mà nghệ thuật kịch và điêu khắc đạt đến đỉnh cao thì cảm tình đối với tự nhiên cũng không thực sự phát triển, cho nên trong sử thi Homer cũng rất ít miêu tả tự nhiên, tự nhiên rất ít đi vào kịch Hi Lạp. “Trời đất tự nhiên này phải đợi đến chủ nghĩa lãng mạn thế kỉ 19 mới có được sự khai thác phong phú và chi tiết. Byron, William Wordsworth, Goethe là những người đầu tiên đưa biển lớn, sông dài, núi cao vào trong tác phẩm của mình” Listowel Bình thuật lịch sử mĩ học cận đại. Nxb Dịch văn Thượng Hải, 1980, tr186. Các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa đề xuất khẩu hiệu “quay trở lại với tự nhiên”, dùng nó để thể hiện sự bi phẫn đối với việc hình thành văn hóa thành thị và văn hóa công nghiệp của xã hội tư bản chủ nghĩa và ước muốn trở về với tự nhiên thuần phác. Chủ nghĩa lãng mạn đề cao cảnh sắc tráng lệ của đại tự nhiên, lấy đại tự nhiên làm đối tượng biểu hiện chủ yếu, miêu tả và ca ngợi vẻ đẹp của đại tự nhiên, núi cao hùng vĩ, biển rộng mênh mông, phong cảnh điền viên thuần phác, yên tĩnh, tình điệu riêng biệt ở đất khách quê người, tất cả đều xuất hiện dưới ngòi bút của nhà văn lãng mạn chủ nghĩa, hơn nữa, vẻ đẹp tự nhiên này đều đối chiếu rõ rệt với sự độc ác của hiện thực. Trong Just. Harold của Byron tràn ngập phong cảnh tự nhiên mềm mại ở phía nam địa trung hải, cảnh sắc rực rỡ ở Tây Ban Nha, di tích lịch sử hùng vĩ ở Hi lạp La mã, tạo nên sự khác biệt một trời một vực với hoàn cảnh đầy tội ác của chủ nghĩa tư bản. Tưởng tượng mãnh liệt, khoa trương đặc biệt là thủ pháp biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa lãng mạn. Để làm nổi bật lí tưởng và biểu hiện tình cảm chủ quan, chủ nghĩa lãng mạn cũng có nét đặc sắc trên thủ pháp biểu hiện nghệ thuật và hình thức nghệ thuật, nó vận dụng thủ pháp biểu hiện nghệ thuật khoa trương khác thường và trí tưởng tượng mãnh liệt, lấy tình tiết vượt lên hiện thực, sắc thái đậm đà, ngôn ngữ mĩ lệ, đem truyền thuyết lịch sử, cổ tích thần thoại, kì quan tự nhiên, phong cảnh ở nơi xa lạ…kết hợp lại, tổ chức nên một thế giới lí tưởng phi thường, nhân gian, tiên cảnh, thiên đường địa ngục, thần tiên ma quỷ, mưa gió sấm chớp, thảo mộc hoa lá muông thú côn trùng…đều có thể mặc sức để nhà văn lãng mạn điều khiển, bối cảnh có thể không ngừng thay đổi, không gian có thể thoải mái kéo dài. Trong Faust của Geothe, bối cảnh câu chuyện từ thư phòng chật hẹp đến thành quách sáng láng, lại đến cửa quan huy hoàng, tình tiết của nó cũng là thời gian nghiên cứu học vấn, thời gian giao kèo với quỷ, thời gian nói chuyện tình ái với cô nương thành thị, thời gian nhận được nhiều hủ bại của vương triều, thời gian đến bờ biển dự định cải tạo tự nhiên, cuối cùng là các thiên sứ cùng nâng đỡ linh hồn Faust bay lên không trung. Như vậy,văn học lãng mạn là một khuynh hướng thẩm mĩ lấy việc khẳng định cái tôi cá nhân cá thể làm nguồn cảm hứng chủ đạo. Một cái tôi không thỏa mãn với thực tại, tìm cách tự giải thoát khỏi thực tại bằng mộng tưởng và bằng đắm mình vào đời sống nội tâm tràn đầy tình cảm, cảm xúc. Giải phóng trí tưởng tượng và tình cảm, cảm xúc ra khỏi sự trói buộc của lí trí, của chủ nghĩa duy lí, là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn. Nó yêu tự do, thích sự độc đáo phi thường, có hứng thú giãi bày những cảm xúc mãnh liệt, đặc biệt là nỗi buồn đau, lòng sầu xứ, tình yêu say đắm , sự ngưỡng mộ tạo hóa và thượng đế. Chủ nghĩa lãng mạn rất gần gũi với tuổi trẻ vì tuổi trẻ giàu tình cảm , dễ đắm say, đặc biệt trong tình yêu. Tuổi trẻ luôn hướng về cái mới lạ. họ thích táo bạo , độc đáo , khác thường. II. Trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam Sau ngày 17/06/1930, khi cuộc nổi dậy của Nguyễn Thái Học thất bại ở Yên Bái, Pháp đẩy mạnh việc đàn áp, khủng bố, bắt bớ, tù đày các nhà ái quốc nhằm dập tắt các cuộc khởi nghĩa từ trong trứng nước để củng cố nền đô hộ. Các phong trào tạm thời lắng xuống, các tổ chức ái quốc bị dao động mạnh buộc phải tạm ngưng các hoạt động rút vào bóng tối nhằm bảo toàn tổ chức và nhân sự. Cuộc khủng bố qui mô toàn quốc những năm 1930 đã gây một không khí hoang mang, lo sợ trong tầng lớp thanh niên và trí thức. Chỉ trong hai năm 1930 và 1931 riêng ở Bắc Kỳ, chính phủ bảo hộ Pháp đã mở 21 phiên tòa đặc biệt gọi là Hội Đồng Đề Hình xét xử tất cả 1094 vụ án chính trị, trong đó có 164 bản án tử hình, 114 khổ sai chung thân, 420 lưu đày biệt xứ. Đây là thời kỳ thoái trào của các hoạt động cách mạng chống Pháp dành độc lập cho đất nước. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 từ Pháp tràn về Đông Dương thuộc địa như một thiên tai khiến cuộc sống xã hội trở nên khó khăn. Hàng hoá rẻ mạt nhưng lại không kiếm ra tiền, các xí nghiệp kinh doanh thi nhau phá sản, sa thải nhân công. Ngân quỹ nhà nước bảo hộ thất thâu không đủ khả năng tuyển dụng thêm công chức, nạn trí thức thất nghiệp là mối lo âu chung của những người được Pháp đào tạo. Trộm cướp, thuốc phiện, bài bạc, đĩ điếm trở thành những vấn đề nan giải. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới càng tăng thêm bi quan cho bàu không khí u ám, buồn thảm vốn đang căng thẳng, ngột ngạt. Trong khung cảnh đó những người trí thức ấp ủ tinh thần dân tộc mang tâm trạng tiêu cực muốn thoát ly khỏi những vấn đề bức xúc của cuộc tranh đấu dành độc lập. Họ có thái độ chán nản, xa lánh chính trị. Thái độ này được củng cố trên cơ sở mối bất hòa tuyệt vọng giữa họ và hoàn cảnh xã hội đương thời. Sự ra đời của trào lưu văn chương lãng mạn giải quyết được bế tắc, đáp ứng được nhu cầu cho giới trí thức trong bối cảnh xã hội bi quan đó. Con đường làm văn học nghệ thuật bằng chủ nghĩa lãng mạn là lốt thoát trong sạch, nơi trú ẩn tinh thần tương đối an toàn có thể gửi gấm tâm sự, và cũng là phương cách bày tỏ lòng yêu nước. Chủ nghĩa lãng mạn đề cao tự do cá nhân đã đáp ứng được khát vọng giải phóng bản ngã, khát vọng tự do yêu đương cho hạnh phúc cá nhân, cho quyền sống cá nhân. Điều này giải thích được quan điểm mỹ học nghệ thuật vị nghệ thuật của những người trong trào lưu văn chương lãng mạn thuộc giai đoạn 1932-1945 của văn học Việt Nam. Tất nhiên để có một trào lưu văn học thì bao giờ cũng cần có một hay nhiều người khởi xướng với sự tham gia tích cực của văn giới, và được đón nhận đông đảo của độc giả. Từ 1932 đến 1935 đã nổ ra hàng loạt các cuộc tranh luận văn học sôi nổi được tham gia của nhiều tờ báo và các nhà văn, nhà thơ tranh luận về thơ mới thơ cũ, tranh luận về bỏ cũ theo mới, tranh luận về hôn nhân và gia đình, tranh luận về nghệ thuật phục vụ cái gì. Các cuộc tranh luận này phản ảnh cuộc đấu tranh giữa lễ giáo phong kiến với tự do cá nhân, giữa khuôn sáo và tư tưởng gò bó với cảm xúc cá nhân được tự do bày tỏ. Hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay do Nhất Linh và nhóm Tự Lực Văn Đoàn chủ trương là cơ quan ngôn luận cổ võ mạnh mẽ cho sự thay cũ đổi mới và là nơi qui tụ văn chương của các nhà văn, nhà thơ trong trào lưu văn học lãng mạn gồm có Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Huy Cận, Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ. Sự thành công của trào lưu văn chương lãng mạn cũng phải kể đến các tờ Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tao Đàn, Thanh Nghị với sự tham gia của các tác giả như Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Phạm Huy Thông, Bích Khê, Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Xuân Sanh, Sự toàn thắng của phong trào thơ mới cũng là tiếng trống khải hoàn cho trào lưu văn học lãng mạn, chấm dứt hoàn toàn lối thơ văn cũ từ thời Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong trở về trước. Như vậy, trào lưu lãng mạn trong văn học Việt nam đầu thế kỷ XX có một số đặc điểm như sau + Hình thành và phát triển trong hoàn cảnh thuộc địa, nhà văn bị hạn chế về nhiều mặt tự do tư tưởng , tầm văn hóa – tri thức, điều kiện vật chất,… + Một số nhà văn nhà thơ cũng có tuyên ngôn này khác Thế Lữ, Xuân Diệu, Nhóm thơ Bình Định, Xuân thu nhã tập, Tự lực văn đoàn,.. nhưng nói chung không lí thuyết nhiều, không đẩy lên thành chủ nghĩa này, trường phái khác một cách cực đoan. + Thành tựu có tính kết tinh nhất và có giá trị thẩm mĩ lâu dài hơn cả là thơ trữ tình, truyện ngắn, một số thể kí. Nội dung tư tưởng Chủ nghĩa lãng mạn nói chung là sự thể hiện trên lĩnh vực mĩ học thái độ bất hòa bất mãn với xã hội, với thực tại. Khao khát dân chủ tự do, văn minh, tiến bộ, tỏ thái độ bất hòa bất mãn với chủ nghĩa thực dân tàn bạo, hống hách và với những tập tục phong kiến hủ bại. Vì thế tuy chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn học Pháp – đất nước của kẻ xâm lược – văn học lãng mạn Việt Nam vẫn cắm rễ rất sâu vào cội nguồn dân tộc. Nó đã đi tiên phong và có đóng góp quan trọng vào công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc trên cơ sở truyền thống văn học Việt Nam. Hoài Thanh hiểu sâu sắc tấm lòng của những cây bút lãng mạn ấy họ yêu vô cùng tiếng mẹ đẻ. Họ viết văn , làm thơ để mong đóng góp được chút gì trong hoàn cảnh mất nước, vào việc giữ gìn và phát triển tiếng nói và văn chương dân tộc. Họ khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam từ hình thức đến tâm hồn. Họ nói dùm nỗi buồn đau của người dân Việt Nam “ Thiếu quê hương” ngay trên mảnh đất đã sinh ra mình. Nếu như những tâm hồn lãng mạn phương Tây, chủ yếu tỏ thái độ khinh bạc đối với lối sống gọi là buôcgioa tư sản phàm tục trên quan điểm thẩm mĩ thì những cây bút lãng mạn Việt Nam, bên cạnh thái độ ấy, còn đối lập trên tinh thần dân tộc, đối với lối sống nô lệ, bằng lòng, thậm chí thoả mãn đối với thực tại của xã hội thực dân. Lòng yêu nước ấy, sau này sẽ đưa họ hầu hết đến với cách mạng và giúp họ theo đuổi hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đến cùng. Các chặng đường phát triển văn học lãng mạn Việt Nam phát triển từ đầu thế kỉ XX đến 1945 qua hai bước, phù hợp với quá trình hiện đại hóa văn học Bước thứ nhất diễn ra từ đầu thế kỉ đến khoảng năm 1930 + Thơ Tản Đà, Đoàn Như Khuê, Trần Tuấn Khải. + Văn xuôi Đông Hồ Linh Phượng kí, Tương Phố giọt lệ thu, nhất là Hoàng Ngọc Phách Tố Tâm. Bước thứ hai diễn ra khoảng từ 1930- 1945. Thành tựu của văn học LMVN ở bước này rất phong phú + Phong trào thơ Mới mà tác giả là những cây bút rất trẻ , đầy tài năng, thấm nhuần tư tưởng và văn hóa của phương Tây hiện đại. Họ đã sáng tạo ra các thể thơ mới, hoặc làm mói các thể thơ truyền thống. Dặc biệt cái mới không ở hình xác câu thơ mà là ở tinh thần của nó. Ấy là cái tôi cá nhân cá thể được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và trí tưởng tượng. Nó phá bỏ hệ thống ước lệ có tính chất phi ngã của thơ cũ để trực tiếp quan sát hoặc diễn tả thế giới bao gồm cả ngoại cảnh và nội tâm bằng con mắt tươi mới, xanh non của mình. Nó có nhiều khám phá mới lạ, tinh tế và đầy tài hoa về thiên nhiên về tình yêu. Nó đêm đến cho thơ một chất trẻ trung hấp dẫn không có trong thơ cổ. Tác giả tiêu biểu Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu , Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên , Nguyễn Bính + Về văn xuôi Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn Nhất Linh , Khái Hưng, Hoàng Đạo với mô hình tiểu thuyết ái tình mà nhân vật lí tưởng là đôi thanh niên nam nữ Âu hóa từ y phục đến tâm hồn. Đó là những nhân vật trí thức Tây học thuộc những gia đình giàu có và sang trọng trong xã hội cũ. Họ đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân, cho luyến ái tự do và cho một phong trào Âu hóa. Những tác phẩm tiêu biểu ủa các nhà văn này thường là những tiểu thuyết luận đề chống lễ giáo phong kiến Nửa chừng xuân. Đoạn tuyệt, Lạnh lùng,..; những cải cách xã hội có tính chất không tưởng Con đường sáng, Gia đình,…; sự khủng hoảng sâu sắc về tinh thần Đẹp, Bướm trắng, Thanh Đức Truyện ngắn Thạch Lam, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,…
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930-1945 trong chương trình Ngữ văn lớp 11", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênNội dung text Chuyên đề Văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930-1945 trong chương trình Ngữ văn lớp 11CHUYÊN ĐỀ VĂN XUÔI LÃNG MẠN VN GIAI ĐOẠN 1930-1945 TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THUYẾT VĂN HỌC LÃNG MẠN 1. Khái niệm. - Văn học lãng mạn là một trào lưu văn hóa lớn nhất ở Âu Mĩ vào cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX có ảnh hưởng và ý nghĩa đối với sự phát triển của văn học toàn thế giới. - Nguyên tắc chung của CNLM =>đề cao tình cảm con người, khẳng định cái tôi cá nhân, cá thể ,phát huy mạnh mẽ trí tưởng tượng. - Ở VN Chủ nghĩa LM với tư cách là một trào lưu văn học xuất hiện những năm 30 của thế kỉ XX. Tiêu biểu cho trào lưu này là văn xuôi TLVĐ và phong trào thơ mới. 2. Tác giả,tác phẩm tiêu biểu - Về văn xuôi Thạch Lam tập truyện ngăn “?Nắng trong vườn”, “Gió đầu mùa” .- Nguyễn Tuân Ngọn đèn dầu lạc 1939 Vang bóng một thời 1940 Chiếc lư đồng mắt cua 1941 - Nhất Linh Gánh hàng hoa 1934 Đoạn tuyệt 1934-1935 Bướm trắng 1938-1939 - Khái Hưng Anh phải sống 1934 Tiếng suối reo 1935 - Hoàng Đạo Trước vành móng ngựa 1938 Tiếng đàn 1941-Về thơ ca Xuân Diệu,Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân 3. Nghệ thuật biểu hiện a. Xây dựng hình tượng nhân vật -> xu hướng lí tưởng hóa -> gửi gắm tư tưởng ,tình cảm của tác giả. b. NT tương phản -Ngoài những thủ pháp NT như cường điệu, trữ tình ngoại đề ,so sánh thì thủ pháp đem lại hiệu quả cao nhất cho văn học lãng mạn đó là thủ pháp NT tương phản với những cấp độ đa dạng. + Tương phản trong xây dựng hình tượng. . Tương phản trong một nhân vật > Ví dụ như nhân vật Huấn Cao đó là sự kết hợp giữa nghệ sỹ tài hoa và một anh hùng “ Bần tiện ”- Tương phản giữa hai nhân vật HC-QN -> bình diện chính trị xã hội . Tương phản giữa nhân vật và hoàn cảnh Tâm hồn > NT nhận xét QN “ Ông trời nhiều khi chơi ác đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã và những người có tâm điển tốt và thẳng thắn thường phải ăn đời ở kiếp với lũ người quay quắt”; ở tác phẩm HĐT ước mơ cao đẹp> trong cảnh cho chữ => nổi bật tư tưởng, chủ đề của tác phẩm . + Tương phản giữa các chi tiết chi tiết bóng tối > chuyện chỉ có thế nhưng những âm thanh, hình ảnh ấy qua tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam và ngòi bút tinh tế giàu chất thơ của TL lại như có linh hồn , lung linh muôn màu sắc, có khả năng làm lay động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm , đánh thức và khơi gợi bao tình cảm xót thương, day dứt dịu dàng và nhân ái. nhận chung. - Cốt truyện đơn giản, giàu sức gợi . - Nhân vật sống âm thầm lặng lẽ nhưng dường như họ sinh ra là để yêu thương nhaunghèo, một cảnh chợ chiều đã vãn với vỏ nhãn, vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tòi, nhặt nhạnh một đoàn tàu đêm lướt qua và nỗi buồn mơ hồ với những khát khao đến tội nghiệp của hai đứa trẻ . => chuyện chỉ có thế nhưng những âm thanh, hình ảnh ấy qua tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam và ngòi bút tinh tế giàu chất thơ của TL lại như có linh hồn , lung linh muôn màu sắc, có khả năng làm lay động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm , đánh thức và khơi gợi bao tình cảm xót thương, day dứt dịu dàng và nhân ái. nhận chung. - Cốt truyện đơn giản, giàu sức gợi . - Nhân vật sống âm thầm lặng lẽ nhưng dường như họ sinh ra là để yêu thương nhau- Tư tưởng, tình cảm Tác phẩm đánh thức trong ta nhiều nỗi niềm về quá vãng đồng thời thức dậy ước mơ về ngày mai. 3. Mức độ vận dụng a. HĐT – chất thơ trong những trang văn xuôi. - Chất thơ được tạo bởi bức tranh được miêu tả trong tác phẩm khơi gợi nhiều cảm xúc tâm trạng qua nhịp điệu câu văn và cảm xúc của nhân vật chính. - Bức tranh thiên nhiên phố huyện lúc chiều tà. + Màu sắc d/c + Hình ảnh d/c + Đường nét d/c + Âm thanh d/c=> Bức họa đồng quê gần gũi, thân thuộc, mang hồn cốt của dân tộc . Gợi cảm giác buồn xào xạc trong tâm hồn mỗi con người - Bức tranh cuộc sống + Cảnh chợ tàn chỉ còn lại rác rưởi + Cảnh những kiếp người tàn . Những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại nhặt nhạnh, tìm tòi những thứ còn sót lại sau phiên chợ tàn như vỏ bưởi, vỏ mía , lá nhãn => nghèo khổ đến tội nghiệp. . Hai chị em Liên và An phải xa Hà Nội và tuổi thơ sung túc vì thầy Liên mất việc, để về trông coi cửa hàng tạp hóa nhỏ, lời lãi chẳng bao nhiêu => cuộc sống khó khăn . Mẹ con chị Tý ngày đi mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước dưới gốc cây bàng => cuộc sống cầu may qua ngày.. Bác phở Siêu khá giả hơn là bán phở nhưng nguy cơ ế ẩm cao vì ở phố huyện nhỏ bé này phở của bác chỉ là thứ quà xa xỉ. . Bà cụ Thi điên điên lại nghiện rượu => đây là hình ảnh nhãn tiền đáng sợ nhất của đời người. • NT - Cách lựa chọn thời điểm để mô tả lúc chiều tàn dễ đánh thức cảm xúc tâm trạng - Câu văn êm dịu giàu, hình ảnh. Cảnh câu trước thức dậy cảnh câu sau. Nhịp điệu chậm rãi. - Giọng văn êm dịu có chút u buồn b. HĐT sử dụng hiệu quả thủ pháp NT tương phản đối lập. - NT tương phản đối lập Là thủ pháp NT quen thuộc của sáng tác lãng mạn được tạo nên bởi những cặp phạm trù có tính chấttương phản đối lập khi chúng được đặt cạnh nhau làm nổi bật một trong hai đối tượng => tạo hiệu quả ấn tượng cho người đọc. - Bức tranh phố huyện lúc về đêm. + Có sự > tượng trưng cho ước mơ nhỏ nhoi, khát khao ttooij nghiệp của người dân phố huyện. . Bóng tối tràn lan ,đậm đặc, bao trùm, chế ngự tối hết cả sẫm đen hơn nữa -> là cuộc sống tối tăm, tù đọng, quẩn quanh của người dân nơi đây. . Cuộc sống của con người vẫn cứ lần mò trong đêm tối -> nhu cầu mưu sinh đối lập với thực tại tù đọng. => Bóng tối lấn át ánh sáng gợi những khát khao thương cảmc. HĐT – khẳng định cái đẹp trong những miền đời bị lãng quên. - Nhan đề Hai đứa trẻ - đó là Liên và An -> gợi suy nghĩ về đối tượng cần được nâng niu, chăm sóc. + An có tâm hồn thơ ngây, trong sáng, khát khao ánh sáng, luôn hướng về HN huyên náo và sung túc -> khát khao chính đáng. + Liên là cô bé có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, trong sáng và nhân hậu. . Trước cảnh chiều vào đêm Liên cảm thấy buồn thấm thía của cảnh chiều quê nghèo đói. . Trước cảnh những con người nghèo đói nơi phố huyện Liên động lòng thương xót nhưng bất lực. -> Số phận đang bị lãng quên cần được quan tâm, chăm sóc và yêu Tất cả những con người nơi đây sống trong bóng tối nhưng luôn hướng về ánh sáng và khát khao được đổi đời -> chuyến tàu đêm + Chuyến tàu đêm xuất phát từ HN đi qua phố huyện. + Là chuyến tàu mong đợi không chỉ vì ý nghĩa vật chất mà còn vì nhu cầu tinh thần. + Được miêu tả chi tiết khi xuất hiện đến lúc mất hút sau rặng tre + Chuyến tàu đêm biểu tượng cho ánh sáng rực rỡ nhất, âm thanh huyên náo và sự giàu sang nhất. + Nó khơi gợi trong hai đứa trẻ kỉ niệm về HN về tuổi thơ êm đềm. -> Khẳng định niềm tin, niềm hi vọng sống của con người, sống luôn biết khát khao hi vọng, luôn biết kiếm tìm và hướng ra ánh sáng , cần có những rung động rất người và cần biết yêu thương3, Tổng kết a. Nội dung Tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc . - Nỗi lòng xót thương dành cho những kiếp người nghèo khổ, sống tù túng bế tắc, tẻ nhạt trong xã hội VN trước CMT8 - Trân trọng những ước mơ, khát vọng đổi đời của con người. - Bức thông điệp phải biết quan tâm đến những đứa trẻ cho chúng cuộc sống tốt đẹp hơn. b. NT - Cách tạo dựng tình huống truyện tâm trạng - Lựa chọn K-TG miêu tả khơi gợi cảm xúc- Giọng văn nhẹ nhàng, cách miêu tả tinh tế từ cảnh vật -> hồn người. - Sử dụng thủ pháp NT tương phản đầy ám ảnh. III. Bài tập vận 1 Truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam , được rút từ tập nào của ông ? A. Hà Nội băm sáu phố phường. B. Nắng trong vườn. C. Gió đầu mùa. D. Theo dòng. ĐÁP ÁN BCâu 2 Thạch Lam thành công nhất với thể loại văn học nào? A. Tùy bút. B. Phóng sự C. Tiểu thuyết D. Truyện ngắn. ĐÁP ÁN D• Câu 3 Tâm trạng của Liên trong truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam trước khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống nơi phố huyện như thế nào? A. Cảm thấy nhẹ nhõm khi chiều đến, và được nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả. B. Vui vẻ và náo nức chờ đón đoàn tàu đi qua. C. Được trò chuyện với chị Tí, bác Siêu và ngắm ông “ thần nông” trên bầu trời đêm. D. Buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn. ĐÁP ÁN D• Câu 4. Dòng nào sau đây không nhận định chính xác về Thạch Lam. A. Thạch Lam ở mảng phóng sự, nhưng lại là cây bút tài hoa khi viết tiểu thuyết diễm tình. B. Hai yếu tố “ Hiện thực” và “ Trữ tình ,thi vị” luôn đan cài ,xen kẽ vào nhau tạo nên nét đặc thù , đặc sắc khó lẫn trong phong cách nghệ thuật của ông. C. Truyện ngắn của Thạch lam thường không có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương. D. Ông đi sâu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ , mong manh, tinh ÁN A • Câu 5 . Hình ảnh cuối cùng khép lại một “ ngày tàn” và cũng là hoạt động cuối cùng trong thiên truyện là? A. Bà cụ Thi vừa đi vừa cười khanh khách về phía cuối làng. B. Bác Siêu đưa hàng phở đến. C. Chuyến tàu đến và đi qua. D . Chị Tí gánh hàng nước đi qua. ĐÁP ÁN C• Câu 6. Trong truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” tác giả đã nhắc nhiều lần đến cái vầng sáng tỏa ra từ ánh đèn nhỏ của gánh nước chị Tí . Nó có ý nghĩa gì? A . Một thứ ánh sáng gần gũi, yêu thương. B. Mọt thứ ánh sáng gợi nhiều thi vị. C. Nó gợi vẻ đẹp thơ mộng của làng quê Việt Nam. D. Nó gợi ta liên tưởng đến những kiếp người nghèo khổ, những cảnh đời lay lắt, sống vật vờ, tàn lụi đáng thương trong màn đêm của xã hội cũ. ĐÁP ÁN D• Câu 7. Câu văn nào sau đây không nhằm gợi lên vẻ đẹp bình dị mà thơ mộng và tình yêu quê hương? A. Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa. B. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu vang ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. C. Vòm trời hàng ngàn ngô sao ganh nhau lấp lánh với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào các cành cây. D. Tiếng trồng thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều .trên nền ÁN A Câu 8. Câu nào đưới đây không thuộc về ý nghĩa nhân đạo trong truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam? A. Cảm thương sâu sắc với nỗi đau của những kiếp người nghèo khổ, lay lắt trong xã hội cũ. B. Biểu lộ sự trân trọng với những ước vọng đổi đời của những kiếp người nghèo khổ. C. Tố cáo sâu sắc xã hội thực dân nửa phong kiến. D. Luôn hướng họ đến một tương lai tươi sáng. ĐÁP ÁN CIV. Bài tập về nhà Yêu cầu Lập dàn ý cho đề bài sau. Đề ra Cảm nhận của anh chị về diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ ở cảnh đợi tàu và từ đó nêu những đóng góp mới mẻ của Thạch Lam trong việc thể hiện cảm hứng nhân đạo độc đáo,sâu sắc.
chuyên đề văn học lãng mạn việt nam